Trình Độ Tiếng Anh Của Người Việt Nam

Trình Độ Tiếng Anh Của Người Việt Nam

Từ lâu, Tiếng Anh đã được lựa chọn để trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung của toàn thế giới. Vì thế, đa số các quốc gia đều tập trung đầu tư và  phát triển nhiều kỹ năng của Ngoại Ngữ này. Tuy nhiên, trình độ Tiếng Anh của người Việt Nam lại có vị trí khá thấp trên bảng xếp hạng Chỉ số thông thạo Tiếng Anh của EF (EPI). Để tìm hiểu kỹ hơn thông tin, quý bạn đọc hãy cùng I Study English tham khảo ngay bài viết dưới đây nhé!

Từ lâu, Tiếng Anh đã được lựa chọn để trở thành ngôn ngữ giao tiếp chung của toàn thế giới. Vì thế, đa số các quốc gia đều tập trung đầu tư và  phát triển nhiều kỹ năng của Ngoại Ngữ này. Tuy nhiên, trình độ Tiếng Anh của người Việt Nam lại có vị trí khá thấp trên bảng xếp hạng Chỉ số thông thạo Tiếng Anh của EF (EPI). Để tìm hiểu kỹ hơn thông tin, quý bạn đọc hãy cùng I Study English tham khảo ngay bài viết dưới đây nhé!

Khảo sát trình độ Tiếng Anh tại Trung tâm I Study English

Trung tâm Anh Ngữ I Study English luôn “nắm bắt” rõ các nhu cầu và mong muốn của học viên. Điều đó đã giúp đưa ra các chính sách kịp thời, miễn phí khi đăng ký khảo sát trình độ năng lực tại đây. Bên cạnh đó, nếu tham gia khóa học giao tiếp của ISE bạn cũng sẽ nhận được thêm các ưu đãi khác như:

Trên đây là những thông tin hữu ích mà Trung tâm Anh Ngữ ISE đã gửi đến quý bạn đọc. Đồng thời, việc cải thiện trình độ Tiếng Anh của người Việt Nam sẽ không bao giờ là quá khó khăn. Do đó, bạn hãy lựa chọn ngay một cơ sở uy tín, chất lượng để trau dồi và cải thiện các kỹ năng Ngoại Ngữ nhé!

Theo báo cáo thường niên 2023 về “Dạy và học ngoại ngữ tại Việt Nam” vừa được công bố, học sinh Việt Nam chưa thực sự vượt trội trong các kỳ thi tiếng Anh quốc kỹ năng nói (speaking). Điểm trung bình môn nói cho kỳ thi TOEFL là 14/30 và cho kỳ thi IELTS là 5.8.

Độ tuổi thi IELTS ngày càng trẻ

Báo cáo “Dạy và học ngoại ngữ tại Việt Nam” năm 2023 nhận định độ tuổi thi IELTS của người Việt Nam ngày càng trẻ. Cụ thể, vào năm 2018, hơn 50% người thi IELTS có độ tuổi trên 23. Chỉ gần 1,5% người thi IELTS thuộc độ tuổi 16-18, hơn 13% trong nhóm 19-22 tuổi. Sau 5 năm, tỷ lệ học sinh, sinh viên 16-22 tuổi trong tổng số người thi IELTS tăng lên 62%. Nhóm 16-18 tuổi chiếm 30%, tăng 20 lần so với năm 2018; nhóm 19-22 tuổi tăng hơn hai lần; nhóm trên 23 tuổi giảm hơn một nửa, từ gần 52 xuống 20%.

Từ năm 2017, Bộ GDĐT xét miễn thi và tính điểm 10 tốt nghiệp THPT môn ngoại ngữ với thí sinh có chứng chỉ IELTS từ 4.0 trở lên hoặc tương đương. Năm 2021 có hơn 28.600 thí sinh thuộc diện này, năm 2022 tăng lên hơn 35.000 và năm 2023 là 47.000 em. Ngày càng nhiều trường đại học tuyển sinh bằng phương thức xét tuyển chứng chỉ IELTS và tương đương. Đây chính là những lý do khiến chứng chỉ ngoại ngữ nói chung và chứng chỉ IELTS ngày càng được ưa chuộng, nhóm học sinh ở độ tuổi THCS, THPT sở hữu chứng chỉ này ngày càng tăng.

Bà Nguyễn Thị Mai Hữu - Trưởng ban Quản lý Đề án ngoại ngữ quốc gia cho biết, theo dữ liệu từ tổ chức IELTS, điểm thi trung bình của người Việt năm 2022 là 6.2/9.0, xếp thứ 23 trên 40 quốc gia tổ chức kỳ thi IELTS, cùng hạng với Hàn Quốc, Pakistan và Ấn Độ.

Thực tế cũng cho thấy, điểm trung bình môn ngoại ngữ qua kỳ thi tốt nghiệp THPT hằng năm của học sinh Việt Nam còn thấp. Qua dữ liệu thống kê từ Bộ GDĐT về điểm thi môn tiếng Anh trong kỳ thi tốt nghiệp THPT tính từ năm 2020 đến 2023, điểm trung bình là 5,25. Gần 50% học sinh đạt điểm dưới 5.

Ông Lê Anh Vinh - Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (Bộ GDĐT) cho biết, trong 10 năm trở lại đây, việc triển khai dạy - học ngoại ngữ tại Việt Nam phát triển rất nhanh, đặc biệt ở các vùng, miền có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi. Cùng với việc phát triển về quy mô, chất lượng dạy và học cũng tăng lên, thể hiện ở sự đa dạng, phong phú trong cách học, cách dạy.

Năm học 2023 - 2024 là năm thứ 4 triển khai Chương trình GDPT mới đối với cấp tiểu học, năm thứ 3 với THCS và năm thứ 2 với THPT. Chương trình môn tiếng Anh theo Chương trình GDPT 2018 được thiết kế nhằm tạo sự liên thông, liền mạch trong quá trình dạy - học tiếng Anh trong toàn bộ hệ thống, từ lớp 1 đến lớp 12. Việc triển khai theo lộ trình dần thay thế các chương trình dạy ngoại ngữ hiện có. Tính đến thời điểm hiện tại, Chương trình môn tiếng Anh theo Chương trình GDPT 2018 được triển khai ở các khối lớp 1, 2, 3, 6, 7 và 10 trên 63 tỉnh/thành.

Báo cáo của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho thấy, môn ngoại ngữ theo Chương trình GDPT mới đã khơi gợi sự hứng thú với môn ngoại ngữ. Hầu hết học sinh cho rằng rất thích thú với giờ học tiếng Anh, đặc biệt là học sinh tiểu học.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, việc dạy - học ngoại ngữ tại Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn như thiếu giáo viên, hạn chế tiếp cận do vùng miền, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy và học… Để đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình mới môn tiếng Anh, đến năm học 2022-2023, hầu hết các giáo viên tiếng Anh cả nước đã được tham gia các khóa bồi dưỡng năng lực sư phạm giảng dạy tiếng Anh.

Theo kết quả rà soát, đánh giá năng lực đội ngũ giáo viên tiếng Anh các cấp học phổ thông tại các địa phương, đến năm học 2022-2023, số giáo viên tiếng Anh các cấp học phổ thông đạt yêu cầu về năng lực ngoại ngữ để triển khai chương trình ngoại ngữ mới là 84%. Trong đó cấp tiểu học là 84%, cấp THCS là 87%, cấp THPT là 77%.

Bộ GDĐT đã ban hành chương trình các môn ngoại ngữ theo Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018 (GDPT mới). Đến năm học 2022- 2023 đã có 53/63 địa phương triển khai thí điểm hoạt động cho trẻ mầm non làm quen với tiếng Anh.

Nhật Bản là cường quốc kinh tế, văn hóa, công nghệ và từ lâu đã giữ một vị trí nổi bật trên trường quốc tế. Đất nước mặt trời mọc này có nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới theo tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và lớn thứ 4 theo sức mua tương đương (PPP). Tuy nhiên, một thách thức không nhỏ mà Nhật Bản phải đối mặt trong hàng thập kỷ qua là trình độ tiếng Anh thấp.

Ngày 31/7 vừa qua, Bộ Giáo dục Nhật Bản thống kê kết quả kỳ thi đánh giá năng lực học tập toàn quốc, tổ chức hồi tháng 4. Kết quả cho thấy học sinh năm thứ ba THCS của nước này (lớp 9) chỉ có thể trả lời đúng trung bình 12,4% câu hỏi trong bài kiểm tra nói tiếng Anh.

Tỷ lệ này giảm 18,4 điểm phần trăm so với năm 2019, khi lần đầu học sinh lớp 9 tham gia khảo sát. Ngoài ra, hơn 60% học sinh tham gia không trả lời đúng bất kỳ câu hỏi nào của bài thi nói.

Yếu tố lịch sử: Tính bản địa mạnh mẽ tạo rào cản

Cách tiếp cận lịch sử đối với giáo dục Ngoại ngữ của Nhật Bản cung cấp cái nhìn sâu sắc về nguồn gốc nảy sinh thách thức về trình độ tiếng Anh hiện nay của người Nhật.

Theo truyền thống, hệ thống giáo dục của Nhật Bản nhấn mạnh đến việc thông thạo ngôn ngữ mẹ đẻ và nuôi dưỡng sự hiểu biết sâu sắc về di sản văn hóa của quốc gia. Sự ra đời chính thức của giáo dục tiếng Anh sau Thế chiến II chủ yếu tập trung vào các kỹ năng đọc và viết, dẫn đến việc ít chú trọng đến năng lực đàm thoại. Do đó, mất kết nối giữa kiến thức lý thuyết và ứng dụng thực tế đã tạo tiền đề cho trình độ tiếng Anh người Nhật như hiện tại.

Các cuộc khảo sát do tập đoàn giáo dục quốc tế Thụy Sĩ EF Education First thực hiện, đo lường trình độ tiếng Anh của người dân ở hơn 100 quốc gia và khu vực không nói tiếng Anh, cho thấy Nhật Bản đã tụt dần đều về vị trí cuối bảng.

Năm 2022, Nhật Bản giảm thêm hai bậc từ vị trí thứ 78 xuống thứ 80. Điều này đặt Nhật Bản ở cấp độ thứ 4 trong 5 cấp độ và tương đương với “trình độ thấp” (61–87).

Trong khi khoảng 70% học sinh trung học Nhật Bản cho biết có kỹ năng đàm thoại tiếng Anh cơ bản, con số này không đáng kể so với mức độ thành thạo của thanh thiếu niên ở các quốc gia khác.

Ví dụ, ở nước láng giềng Hàn Quốc, gần 90% học sinh trung học thể hiện khả năng giao tiếp thông thạo bằng tiếng Anh. Điều đáng nói, cả Nhật Bản và Hàn Quốc đều có thời kỳ lịch sử bị Mỹ chiếm đóng- điều được cho định hình đáng kể trình độ tiếng Anh.

Tuy nhiên, theo chia sẻ của một cựu quan chức ngoại giao cấp cao Nhật Bản, chính sự tự tôn và kháng cự văn hóa mạnh mẽ khiến người dân Nhật không bị "đồng hóa" trước sự "xâm thực" của văn hóa và ngôn ngữ Mỹ, nhưng đây cũng là rào cản để tiếp cận cái mới, khiến Nhật Bản bị thụt lùi.

Môi trường giáo dục Nhật Bản luôn đề cao sự trật tự và nghiêm khắc. Tại các lớp học, thầy nói, trò im lặng và lắng nghe. Nói cách khác, sự thụ động vẫn còn chi phối. Chính điều này làm giảm khả năng phản xạ cũng như giao tiếp của học sinh trong việc học tiếng Anh.

Bên cạnh đó, văn hóa Nhật Bản nhấn mạnh vào sự khiêm tốn và tránh mất mặt. Sợ mắc lỗi và mất mặt trước mặt người khác có thể ngăn cản mỗi cá nhân tham gia vào các cuộc trò chuyện bằng tiếng Anh. Đặc điểm văn hóa này có thể cản trở người học ngôn ngữ thực hành nói- điều vốn rất cần thiết để phát triển sự lưu loát.

Đây là một trong những nguyên nhân khiến năng lực tiếng Anh chỉ dừng ở thông thạo ngữ pháp. Việc dạy học thụ động và văn hóa im lặng dù khiến mọi người cảm tưởng ai cũng lịch sự nhưng trên thực tế, chúng khiến nhiều học sinh Nhật Bản giấu dốt.

Hàng loạt giải pháp nâng trình độ tiếng Anh

Nhận thức được tầm quan trọng hàng đầu của tiếng Anh trong một thế giới ngày càng kết nối, chính phủ Nhật Bản đã chủ động thực hiện nhiều sáng kiến khác nhau để tăng cường giáo dục Ngoại ngữ.

Sáng kiến "Global 30", được đưa ra vào năm 2009, đã tìm cách quốc tế hóa các trường đại học Nhật Bản và thu hút nhiều sinh viên nước ngoài hơn. Là một phần của chương trình này, nhiều trường đại học đã giới thiệu các khóa học được giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, mang đến cho sinh viên cơ hội phát triển trình độ ngôn ngữ trong khi theo đuổi mục tiêu học tập.

Ngoài ra, chính phủ Nhật Bản đang nỗ lực cải cách giáo dục tiếng Anh trong trường học để tập trung nhiều vào các kỹ năng giao tiếp thực tế hơn là ghi nhớ ngữ pháp và từ vựng.

Chương trình Trao đổi và Giảng dạy Nhật Bản (JET), được thành lập vào năm 1987, mời những người nói tiếng Anh bản ngữ từ khắp nơi trên thế giới làm Trợ lý Giáo viên Ngôn ngữ (ALT) tại các trường học Nhật Bản. Chương trình này giúp học sinh tiếp xúc với ngôn ngữ và văn hóa Anh đích thực thông qua tương tác với giáo viên nước ngoài.

Ngoài ra, một số chính quyền địa phương ở Nhật Bản đã thành lập các chương trình Làng tiếng Anh (English Village Programs), nơi học sinh, sinh viên có thể hòa mình vào môi trường chỉ sử dụng tiếng Anh để nâng cao kỹ năng ngôn ngữ của họ.

Nhìn chung, các sáng kiến trên đã góp phần nâng cao nhận thức của người trẻ Nhật Bản về tầm quan trọng của trình độ tiếng Anh trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay. Đồng thời, việc chuyển hướng sang nhấn mạnh các kỹ năng giao tiếp thực tế là một bước chuyển mình đúng đắn trong giáo dục tiếng Anh của quốc gia này.

Những nỗ lực tăng cường giáo dục tiếng Anh trong trường học và gia tăng các chương trình trao đổi đã giúp thế hệ trẻ Nhật Bản sở hữu trình độ tiếng Anh cao hơn so với các thế hệ trước.

Tuy nhiên, một số phương pháp giảng dạy truyền thống vẫn ưu tiên ngữ pháp và học thuộc lòng- điều này tiếp tục cản trở khả năng sử dụng tiếng Anh hiệu quả của sinh viên trong các tình huống thực tế. Sự chênh lệch về nguồn lực và cơ hội hòa nhập ngôn ngữ giữa thành thị và nông thôn vẫn tồn tại như một thách thức. Học sinh ở các trung tâm đô thị có thể tiếp cận tốt hơn với việc tiếp xúc với ngôn ngữ và môi trường quốc tế, trong khi học sinh ở các vùng nông thôn có thể gặp phải những hạn chế.

Chất lượng giáo dục tiếng Anh phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và đào tạo của giáo viên, cũng như sự sẵn có của tài nguyên và công nghệ cập nhật. Đảm bảo khả năng tiếp cận nhất quán của tất cả người dạy và đồng bộ hóa tài liệu là một thách thức.

Có thể thấy, trong khi những nỗ lực của chính phủ Nhật Bản đã cho thấy một số kết quả tích cực, quốc gia Đông Bắc Á này vẫn đang trên một hành trình dài để giải quyết thách thức nan giải này.

Yasunari Kawabata được nhận xét là một nhà văn bí ẩn, giấu cuộc sống cá nhân của mình đằng sau những áng văn xuôi đầy mê hoặc. Trong đó, mối tình đầu bi thảm được cho là đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan văn học của ông.

Vừa tốt nghiệp Đại học Harvard năm 2022 và lấy bằng cử nhân kỹ thuật môi trường, Ryosuke Takashima (26 tuổi) đã trở thành thị trưởng trẻ nhất từ ​​trước đến nay của Nhật Bản.

Nhật Bản đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng trong hệ thống giáo dục do số trường học đóng cửa ngày càng nhiều.