Cải Cúc Tiếng Anh Wikipedia

Cải Cúc Tiếng Anh Wikipedia

Đoàn cải lương Thanh Nga là một doanh nghiệp chuyên tổ chức biểu diễn sân khấu và truyền hình có trụ sở tại Sài Gòn. Đây được coi là một trong những đoàn thể nghệ thuật kinh thương có tuổi đời lâu nhất Việt Nam.

Đoàn cải lương Thanh Nga là một doanh nghiệp chuyên tổ chức biểu diễn sân khấu và truyền hình có trụ sở tại Sài Gòn. Đây được coi là một trong những đoàn thể nghệ thuật kinh thương có tuổi đời lâu nhất Việt Nam.

Khủng hoảng 1: Cơn sốt điện ảnh và vô tuyến truyền hình

Đầu thập niên 1970, khi trào lưu phim chưởng Hồng Kông tràn vào, thị phần cải lương và thoại kịch đều sa sút, nhiều đoàn tan rã. Cầm cự được đến năm 1972 thì phải cho người ngoài mướn cảnh trí, phông màn, phục trang, ánh sáng... Tài tử trong đoàn được phép đi thâu dĩa, đóng phim kiếm kế sinh nhai. Nghệ sĩ Thanh Nga còn phải sang đoàn Dạ Lý Hương hát tạm, lúc rảnh thì quậy siro cho các cháu đi bán dạo kiếm thêm. Kép Hữu Thình và vợ Thanh Lệ lên Long Khánh mua bắp về bán theo kí. Nghệ sĩ Bảo Quốc và vợ Thu Thủy đẩy xe sinh tố vỉa hè.

Đoàn cũng cho phép nghệ sĩ Hữu Phước thuê xác gánh để lập đoàn Thanh Minh - Hương Lan, nhưng không trụ nổi ở Sài Gòn đành xuống Gò Công trương biển hiệu. Tuy nhiên, chỉ vài tháng đoàn này cũng rã.

Đoàn Thanh Minh - Thanh Nga cứ tồn tại lay lắt đến thời điểm 30 tháng 04. Khi chính quyền mới lên, đa số gánh hát miền Nam rã ngũ.

Tháng 08 cùng năm, Thanh Minh - Thanh Nga bất ngờ tái xuất tại rạp Hưng Đạo với tuồng Tấm lòng của biển, chỉ vài giờ đồng hồ đã bán sạch vé. Thanh Minh - Thanh Nga thời kì này trở lại là gánh hát có lượng khán giả quan tâm lớn nhất.

Năm 1976, đôi nghệ sĩ Phùng Há - Thanh Nga được chính phủ đặc cách mời ra Hà Nội tái diễn vở Phụng Nghi Đình[3] để chào mừng Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV.

Năm 1978, khi xảy ra Vụ án Thanh Nga, không khí trong đoàn tạm chùng xuống, tuy nhiên suất diễn vẫn không ngưng.

Năm 1979, do chính sách quốc hữu hóa doanh nghiệp và biểu diễn nghệ thuật, như mọi đoàn khác, Thanh Minh - Thanh Nga nằm dưới quyền quản lí trực tiếp của Sở Văn hóa Thông tin Thành phố với tên gọi Đoàn Nghệ thuật Cải lương Thanh Minh Thanh Nga. Sở cử cán bộ và kế toán về lo các khoản thu chi, phương thức hoạt động, bà Nguyễn Thị Thơ chỉ gánh phần chuyên môn.

Năm 1985, sau hai cái tang liên tiếp nữa, bà bầu Thơ nghỉ hẳn. Đến năm 1988 thì bà mất. Thời kì này, nhân sự đoàn chủ yếu là thân nhân trong gia đình.

Năm 1986, chính sách Đổi mới cho phép các tổ chức biểu diễn nghệ thuật tư lập cũ mới được tự do hoạt động. Thanh Minh - Thanh Nga đăng kí bảo hộ thương mại với danh xưng Đoàn cải lương Thanh Nga. Bấy giờ, mọi doanh thu đều dựa vào tên tuổi nghệ sĩ Bảo Quốc, người đang nổi với danh hiệu đệ nhất danh hài nhờ loạt kịch phẩm truyền hình Trong nhà ngoài phố.

Trong suốt thập niên 1990, Bảo Quốc là một trong những danh hài đắt sô nhất Việt Nam, góp mặt trong hàng ngàn băng từ, liên tục lên truyền hình và điện ảnh. Mặc dù chuyên đóng vai hề, nhưng khi ông vừa về Nhà hát Trần Hữu Trang đã lĩnh lương hạng A, tương đương mọi kép chánh. Đoàn Thanh Nga thời này hoạt động trầm hơn, nhưng nhiều tài tử trong đoàn trở thành tên tuổi được ưa chuộng và có mật độ xuất hiện trên băng đĩa rất lớn.

Nhưng sang thập niên 2000, khi phong trào cải lương lâm cảnh đắp chiếu, nghệ sĩ nhiều người phải bỏ nghề hoặc lấn sang địa hạt truyền hình. Sân khấu cổ truyền hầu như chỉ xuất hiện tại các hoạt động thiện nguyện hoặc lễ lạt, một loạt hình mới là tấu hài được coi như cứu vãn tạm thời.

Năm 2005, ông bầu Hữu Lộc lập Công ty Nụ Cười Mới, vinh danh được một số tài tử như Nhật Cường, Hoài Linh, Trường Giang, Chí Tài, Hứa Minh Đạt, Lâm Vỹ Dạ, Nam Thư, Tân Chề, Long Đẹp Trai, Quách Ngọc Tuyên, Hoàng Mèo, Đại Ngọc Trâm... Năm 2010, nghệ sĩ Hữu Lộc mất, nghệ sĩ Vũ Văn Long (Long Đẹp Trai) kế nhiệm chức giám đốc. Đến năm 2018, thì Nụ Cười Mới phải tuyên bố phá sản do nghệ sĩ gạo cội đi hết, vé bán ra không bù lỗ được.

Theo lời nghệ sĩ Bảo Quốc, ngày nay tuy đoàn vẫn hoạt động âm thầm nhưng phải chuyển hướng đa lĩnh vực để đảm bảo thu nhập cho nghệ sĩ và nhằm bảo lưu thương hiệu Thanh Nga[4].

Bạch Tuyết tên khai sinh là Nguyễn Thị Bạch Tuyết (sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945) là nữ nghệ sĩ cải lương danh tiếng, được mệnh danh là "Cải lương chi bảo". Trước năm 1975, bà kết hợp cùng nghệ sĩ Hùng Cường tạo thành "Cặp sóng thần" cực kì nổi tiếng của sân khấu cải lương thời đó. Bà cũng là Tiến sĩ Nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam tại hai viện hàn lâm Anh quốc và Bulgaria với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á với điều kiện sinh hoạt hiện đại của khán giả thế kỷ thứ 21".

Bà còn viết lời vọng cổ cho các bài tân nhạc với bút danh là Nguyễn Thị Khánh An.[1]

Bà tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh 24 tháng 12 năm 1945 tại làng Khánh Bình, Châu Đốc (nay thuộc Khánh An, An Phú), tỉnh An Giang. Từ thuở còn đi học đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm, thường được các thầy cô đưa lên trình diễn trong những đêm văn nghệ.

Mồ côi mẹ khi 9 tuổi (1954), và bắt đầu đi hát ở những nhà hàng ca nhạc bằng những bài tân nhạc như Nắng đẹp miền Nam, Làng tôi, Tiếng còi trong sương đêm...

Cũng như những bạn cùng lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ Thanh Nga. Trong một lần gặp gỡ, Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương, Thanh Nga nói với Bạch Tuyết rằng "Em đi hát đi, chứ mặt em mà đi hát thì em nổi tiếng dữ lắm", lời khích lệ đó là một trong những động lực đưa bà đến với nghiệp hát xướng.

Năm 1960, Bạch Tuyết vào học trường nội trú của các ma-sơ Công giáo, thời gian này, bà giao du học hỏi với nhiều nghệ sĩ, trong đó có soạn giả Điêu Huyền.[2] Nhờ đó, tên tuổi của bà dần được xuất hiện trên các đài phát thanh, trên báo chí. Điêu Huyền nhận bà làm con nuôi, cho gia nhập đoàn Kiên Giang, sự kiện này giúp đỡ bà rất nhiều trong bước đường sau này.

Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở "Lá thắm chỉ hồng", cô đào chính tới trễ, khiến Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi, diễn xuất của bà khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó là vở "Kiếp chồng chung", "Suối mơ rền áo cưới"... Bà được Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất, với vở "Tiếng hát Muồng Tênh", tên tuổi bà bắt đầu được chú ý.

Tuy đi hát, nhưng bà lại rất thích đi học. Đang hát và nổi tiếng với Đoàn Thống Nhất, thì bà nghỉ nửa năm để ôn thi Tú Tài.[2] Sau này, bà cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như thế để đi học.[2]

Cuối năm 1962, bà vào đoàn Bạch Vân. Năm sau, bà đoạt Giải Thanh Tâm cho Diễn viên triển vọng.

Năm 1964, bà về hát cho đoàn Dạ Lý Hương, hợp tác với các soạn giả danh tiếng bấy giờ là Hà Triều – Hoa Phượng, tài năng của bà càng được khẳng định. Năm sau, vở Tần nương thất đã mang lại cho bà Huy chương Vàng giải Thanh Tâm cho Diễn viên xuất sắc. Cũng trong năm này, bà được soạn giả Hoa Phượng và giới báo chí tặng cho danh xưng "Cải lương chi bảo" do sự thành công của vai diễn Lê Thị Trường An trong vở "Tuyệt tình ca". Danh xưng này gắn liền với tên tuổi bà đến tận bây giờ.

Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành một cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả, được báo chí thời đó phong tặng là "Cặp sóng thần" vì sức hút và độ ăn khách của họ vô cùng mãnh liệt. Bà ở lại đoàn Dạ Lý Hương thêm 2 năm nữa.

Sau năm 1968, tình hình chiến tranh lan rộng, bà ngừng hát một thời gian. Đến năm 1971, bà cùng với Hùng Cường mở gánh hát Hùng Cường – Bạch Tuyết (sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết), diễn các vở kinh điển như: Trăng thề vườn thúy, Má hồng phận bạc, Cung thương sầu nguyệt hạ... Gánh hát này được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên do không biết cách quản lý, sau một thời gian đã ngưng hoạt động. Sau đó bà chuyển sang học Luật.

Năm 1985 (40 tuổi), Bạch Tuyết bước vào giảng đường đại học và có được bằng Cử nhân Ngữ văn.

Năm 1988, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, cũng năm này bà tốt nghiệp khoa đạo diễn ở Viện Hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia.

Năm 1995, bà bảo vệ luận án Tiến sĩ với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á" và trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam. Với tư cách Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn phát triển văn hóa – văn hóa dân tộc của Trường Đại học Bình Dương, bà đã tổ chức nhiều chương trình sân khấu có giá trị về nghệ thuật dân tộc. Hằng tháng, trung tâm này kết hợp cùng Đài Truyền hình Bình Dương thực hiện chương trình "Chân dung đối thoại" với mục đích phổ biến, đề cao văn hóa nghệ thuật dân tộc.

Luôn đau đáu với sự nghiệp phát triển cải lương, bà ôm ấp kế hoạch xây dựng những "trường ca cải lương" và âm thầm bắt tay vào viết những trường ca chuyển thể từ tác phẩm Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Bút quan hoài (Trần Tuấn Khải),… Hiện tác phẩm chuyển thể Kinh Pháp Cú thành trường ca cải lương của bà với nhiều bài bản dễ nhớ, dễ hát, dễ thuộc đã được tái bản nhiều lần qua hình thức VCD, được khán giả đón nhận và khen ngợi… [3]

Năm 2012, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân ở lần xét duyệt thứ 7 (năm 2011).

Những người bà ca diễn chung trong sự nghiệp: Thanh Sang, Phương Quang, Diệp Lang, Ngọc Giàu, Hồng Nga, Phượng Liên, Lệ Thủy, Minh Phụng, Minh Vương, Thanh Tuấn, Thanh Tòng, Bảo Quốc, Hùng Cường, Út Bạch Lan, Thái Châu, Tấn Tài, Út Trà Ôn... Bà từng diễn chung với nhiều kép, nhưng người đóng chung với bà để lại ấn tượng sâu sắc nhất vẫn là Hùng Cường. Họ đã tạo nên cặp đôi "sóng thần" cực kỳ nổi tiếng vào thập niên 1960.[4]

Để kỷ niệm 60 năm gắn bó với sự nghiệp hát cải lương của mình, đầu năm 2021, Bạch Tuyết đã tổ chức Đêm Bạch Tuyết - Gửi người tri kỷ.[5] Đêm nhạc ân tình đó, như chia sẻ của bà, là “món quà” đặc biệt mà “cô Lựu” muốn gửi đến không chỉ những người làm nghề với mình mà quan trọng hơn hết đó là khán giả.

Cùng trong năm đó, Bạch Tuyết là một trong ba gương mặt phụ nữ tiêu biểu được tôn vinh ở cùng một hạng mục vinh danh là nghệ thuật tại Gala Phụ nữ quyền năng 2021.[6] Hai gương mặt còn lại cũng chính là những nghệ sĩ đã có những cống hiến lớn lao trải dài suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật cho đến ngày hôm nay, đó là NSND Kim Cương và NSND Lê Khanh.

Năm 2022, cùng với Hoàng Dũng, ca khúc Về nghe mẹ ru đã đoạt giải TikTok Awards Việt Nam ở hạng mục Âm nhạc của năm.[7][8]

Năm 2023, Bạch Tuyết đã có nhiều hoạt động nghệ thuật đáng chú ý. Bà đã tham gia vai trò ban giám khảo huấn luyện thí sinh trong cuộc thi Chuông vàng vọng cổ lần thứ 18, được tổ chức tại Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, Bạch Tuyết cũng đã thể hiện tài năng diễn xuất trong phim chiếu rạp Biệt đội rất ổn của đạo diễn Tạ Nguyên Hiệp. Vai của "Cải lương chi bảo" Bạch Tuyết đặc biệt, góp phần tạo điểm nhấn cho phim, khi chuyện phim lấy bối cảnh miền Tây, nơi cải lương rất thịnh.[9] Ngày 19 tháng 6 năm 2023, MV Tia sáng cuối cùng do bà hợp tác với ca sĩ, rapper Wowy được ra mắt trên YouTube.[10] Bài hát này đã nhận được nhiều tranh cãi ngay cả người hâm mộ và giới chuyên môn.[11]

Dù đã ở tuổi cao, Bạch Tuyết vẫn tích cực tham gia hoạt động nghệ thuật nhằm lan tỏa và giữ gìn nét đẹp của văn hóa âm nhạc dân gian như cải lương, đến với thế hệ trẻ qua các dự án như: Học viện cải lương[12], Tiếp bước trăm năm[13], Diễn kịch một mình[14], Việt phục[15]...

Bà có rất nhiều vai diễn trên sân khấu cải lương, những vai nổi tiếng của bà: Kiều Nguyệt Nga, Thái hậu Dương Vân Nga, cô Lựu...

Với bút danh: Nguyễn Thị Khánh An

Hơn 300 bài tân cổ do bà tự sáng tác.

Bà từng tìm cách quyên sinh (tự tử) 3 lần nhưng bất thành.

Bà từng quy y Tam bảo Phật giáo với pháp danh Diệu Lộc tại chùa Sắc Tứ (Tiền Giang) do Sư bà Thông Huệ quy y. Bà học Thiền với hòa thượng Thiền sư Thích Thanh Từ (Thiền phái Trúc Lâm yên tử).

Bà kết hôn lần đầu tiên với danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang năm 1967. Cuộc hôn nhân tan vỡ năm 1974 vì lý do riêng tư. Hai người không có con chung. Dù ly dị nhưng sau này 2 người vẫn dành cho nhau những lời tốt đẹp.

Sau khi ly dị, cũng trong năm 1974, bà lập gia đình lần thứ 2 với ông Charles – Nguyễn Văn Đức (Charles Đức), một Việt kiều quốc tịch Pháp. Hai người có với nhau 1 người con trai tên Bảo Giang Valery Bauduin, hiện đang làm việc ở Mỹ. Hiện tại bà có 3 cháu nội trai đang học tập sinh sống tại Mỹ. Riêng bà vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.

Tiếng Anh-Anh (British English, UK English) hoặc Tiếng Anh tiêu chuẩn (Standard English) là phương ngữ tiêu chuẩn của tiếng Anh được sử dụng ở Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland[5] và ở hầu hết các quốc gia thuộc Đế quốc Anh trước đây. Có một số biến thể khu vực nhỏ trong tiếng Anh dạng viết ở Vương quốc Anh. Ví dụ, tính từ wee hầu như chỉ được sử dụng ở các vùng Scotland, Đông Bắc Anh, Ireland và đôi khi là Yorkshire, trong khi little chiếm ưu thế ở những nơi khác (Nam Anh, Wales). Tuy nhiên, có một mức độ đồng nhất đáng kể trong tiếng Anh viết tại Vương quốc Anh và nó có thể được mô tả là tiếng Anh Anh. Tuy nhiên, dạng nói biến thân đa dạng hơn nhiều so với hầu hết các khu vực nói tiếng Anh khác trên thế giới,[6] vì vậy khó áp dụng một khái niệm thống nhất về tiếng Anh Anh hơn đối với ngôn ngữ nói. Theo Tom McArthur trong Oxford Guide to World English, tiếng Anh Anh chia sẻ "tất cả sự mơ hồ và căng thẳng trong từ "Anh" và kết quả là nó có thể được sử dụng và diễn giải theo hai cách, rộng hơn hay hẹp hơn, với một loạt lẫn lộn và mơ hồ".[7]

Tiếng Anh là một ngôn ngữ German Tây có nguồn gốc từ nhóm phương ngữ Anh-Frisia đưa đến Anh bởi các dân tộc German từ nhiều khu vực khác nhau của tây bắc nước Đức và miền bắc Hà Lan. Dân bản xứ tại thời điểm này nói tiếng Britton chung (một ngôn ngữ Celt), và chịu ảnh hưởng của sự chiếm đóng của người La Mã. Nhóm ngôn ngữ này (tiếng Wales, tiếng Cornwall, tiếng Cumbria) đã cùng chung với tiếng Anh bước vào thời kỳ hiện đại, nhưng do sự xa cách của chúng với các ngôn ngữ German, ảnh hưởng đối với tiếng Anh bị hạn chế đáng kể.

Ban đầu, tiếng Anh cổ là một nhóm phương ngữ đa dạng, phản ánh nguồn gốc đa dạng của các Vương quốc Anglo-Saxon tại Anh. Một trong những phương ngữ này, tiếng Tây Saxon muộn, cuối cùng chiếm ưu thế. Tiếng Anh cổ sau đó bị ảnh hưởng bởi hai làn sóng xâm lược: đầu tiên là bởi những người nói thuộc nhánh Scandinavia của nhóm German, những người đã chinh phục và chiếm đóng các phần của Anh trong thế kỷ 7 và 9; thứ hai là người Norman ở thế kỷ 11, những người nói tiếng Norman cổ và rồi phát triển một biến thể tiếng Norman ở Anh Quốc gọi là tiếng Norman Anh. Hai cuộc xâm lược này đã khiến tiếng Anh trở nên "hỗn hợp" ở một mức độ nào đó (mặc dù nó chưa bao giờ là ngôn ngữ hỗn hợp đúng nghĩa thực sự; ngôn ngữ hỗn hợp phát sinh từ sự chung sống của những người nói ngôn ngữ khác nhau, những người này phát triển một ngôn ngữ lai để thuận tiện cho giao tiếp cơ bản).

Việc sống chung với người Scandinavia đã dẫn đến sự đơn giản hóa ngữ pháp và làm phong phú từ vựng cốt lõi Anh-Frisia của tiếng Anh; sự chiếm đóng của người Norman sau này đã dẫn đến việc "ghép" vào lõi German một lớp từ phức tạp từ nhóm ngôn ngữ Rôman. Ảnh hưởng Norman này vào tiếng Anh chủ yếu thông qua tòa án và chính phủ. Do đó, tiếng Anh phát triển thành ngôn ngữ "vay mượn" rất linh hoạt và có vốn từ vựng khổng lồ.

Các phương ngữ và giọng khác nhau giữa bốn quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, cũng như trong chính các quốc gia này.

Các phân nhóm chính thường được phân loại là tiếng Anh tại Anh (hay tiếng Anh được nói ở Anh, bao gồm các phương ngữ Anh Nam Anh, Hạt Tây, Đông Midlands và Tây Midlands, Anh Bắc Anh), tiếng Anh Ulster ở Bắc Ireland, tiếng Anh Wales (thường bị nhầm lẫn với tiếng Wales) và tiếng Anh Scotland (không nên nhầm lẫn với tiếng Scotland hoặc tiếng Gael Scotland). Các phương ngữ tiếng Anh cũng khác nhau về các từ mà chúng đã mượn từ các ngôn ngữ khác.

Tiếng Anh Mỹ là ngôn ngữ chính tại Hoa Kỳ. Ở Canada, giọng nói có vẻ rất giống với tiếng Anh Mỹ nhưng có một vài ngoại lệ (xem tiếng Anh Canada). Phép chính tả tiếng Anh Mỹ ở Canada đôi khi được sử dụng, nhưng theo truyền thống, phép chính tả Anh (ngoại trừ một số từ như programme, -isation / -ise / -isable, chilli, v.v.) được sử dụng. Mặc dù tiếng Anh khối thịnh vượng được nói nhiều nhất, tiếng Anh Mỹ được thấy thường xuyên hơn trên internet. Từ vựng tiếng Anh Mỹ chiếm ưu thế trong phương tiện trực quan: "movies" (tiếng Anh Anh: "films") và television.

Tất cả các quốc gia Khối Thịnh vượng chung Anh và Châu Phi đều học tiếng Anh Khối thịnh vượng chung, trong khi tiếng Anh Mỹ thường được học ở Châu Mỹ và Trung Quốc. Cách phát âm Z là 'Zee' chỉ được tìm thấy ở Hoa Kỳ và ít phổ biến hơn ở Canada, trong khi Z phát âm là 'Zed' hiện diện ở hầu hết mọi nơi khác. Vương quốc Anh và Ireland sử dụng bố trí bàn phím của Anh, trong khi Úc, Nam Phi, Canada, New Zealand và Hoa Kỳ sử dụng bố trí bàn phím của Mỹ. Ở châu Âu lục địa, nơi tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai ngày nay đôi khi thậm chí còn được dạy bằng tiếng Anh Mỹ, ngoại trừ có lẽ ở Scandinavia và Hà Lan.